Cách 1: Giới thiệu tác giả, khái quát chung về tác phẩm
Tác giả: Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, có một thời trẻ gắn bó với cuộc sống chiến đấu của nhân dân trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Thơ của Viễn Phương là những bài thơ dung dị, cảm xúc lắng đọng, chân thành, ngôn ngữ và hình ảnh thơ dung dị, đậm đà sắc màu Nam Bộ
Tác phẩm: Bài thơ được sáng tác năm 1976, sau khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, Bắc Nam một nhà, nhà thơ có dịp ra thăm Lăng Bác và viết bài thơ này, sau đó được in trong tập “Như mây mùa xuân”. Bài thơ Viếng Lăng Bác thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của tác giả đối với Bác-vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, đó cũng là nỗi niềm chung của mỗi người con của dân tộc Việt Nam.
Cách 2: Dẫn dắt từ những câu thơ hay về Bác Hồ
Trong thơ Tố Hữu:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông trọn kiếp người”
(Tố Hữu)
“Lòng Bác đẹp tựa bài ca
Trái tim của Bác bao la biển trời
Công ơn thành kính muôn nơi
Tháng Năm nhớ Bác đời đời khắc ghi”
(Bác Hồ mãi mãi trong lòng nhân dân-Quê hương)
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
(ca dao)
Bác Hồ-vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, Người đã dành trọn cuộc đời để lo cho dân cho nước. Sự ra đi của Bác là nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam, đứng trước lăng Bác, mỗi người con đất Việt đều trào dâng trong lòng niềm tiếc thương vô hạn. Cũng mang trong mình niềm thành kính thiêng liêng ấy, Viễn Phương khi từ miền Nam ra thăm lăng Bác đã không kìm được lòng mà sáng tác bài thơ “Viếng Lăng Bác” để thể hiện lòng yêu mến, biết ơn vô hạn.
Bố cục: Bài thơ có 4 khổ thơ, mỗi khổ tương ứng với một cảm xúc khác nhau của tác giả.
Khổ thơ 1: Cảm xúc của tác giả khi đứng ở ngoài lăng Bác
Khổ thơ 2: Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng thăm Bác
Khổ thơ 3: Cảm xúc trào dâng khi nhìn thấy di hài Bác
Khổ thơ 4: Những tình cảm, cảm xúc của tác giả trước lúc về.
Mạch cảm xúc của bài thơ
Mạch cảm xúc chung: Bao trùm toàn bài thơ là cảm xúc thành kính, thiêng liêng của tác giả, pha lẫn nỗi xót xa khi ra viếng Lăng Bác.
Mạch cảm xúc toàn bài đi theo trình tự của cuộc viếng lăng Bác, từ khi đứng trước lăng, đến khi vào trong lăng, khi nhìn thấy di ảnh Bác và khi nhìn thấy Bác.
*Phân tích khổ thơ đầu tiên
+ Nhà thơ ngay từ đầu đã nói rõ hoàn cảnh cụ thể của buổi viếng lăng Bác, một người con ở trong miền Nam ra thăm Bác. Cách xưng hô “con” vô cùng thân thiết, thể hiện tình cảm gắn bó, yêu thương với vị Cha già kính yêu của dân tộc. Cách dùng từ “thăm” làm giảm nhẹ nỗi đau của sự mất mát, Bác vẫn còn sống mãi trong tâm tưởng của mỗi người con đất Việt.
+ Hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ thấy đó là những hàng tre xanh trước lăng Bác, hàng tre ấy là hình ảnh giản dị, gắn bó với cuộc sống của làng quê Việt Nam. Không những thế, cây tre còn là biểu tượng của một sức sống bền bỉ, kiên cường, một tâm hồn thanh cao.
Mở rộng:
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa...đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
(Tre Việt Nam-Nguyễn Duy)
+ Hàng tre trong “Viếng Lăng Bác” là hàng tre “xanh xanh Việt Nam/Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”, dù cho có bão tố dập vùi thì bởi có sức sống bền bỉ, nương tựa vào nhau mà từng hàng tre vẫn đứng hiên ngang thẳng hàng.
Mở rộng: Lý giải cho sự bền bỉ, kiên cường ấy của thân tre gầy guộc, nhà thơ Thanh Duy cũng từng viết:
“Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm”
Khi còn sinh thời, Bác luôn là một người yêu thiên nhiên, yêu những gì dung dị, gắn bó nhất với đất nước, con người Việt Nam. Chính vì vậy, dù khi đã là chủ tịch của một đất nước, Bác vẫn thích sống trong một căn nhà gỗ, có vườn rau và ao cá. Hình ảnh cây tre trước lăng Bác vừa thể hiện sự bình dị, vừa biểu hiện cho tâm hồn thanh cao của Bác, tinh thần kiên cường, bất khuất của cả một dân tộc.
*Phân tích khổ thơ thứ hai
+ Hình ảnh mặt trời: Mặt trời trong câu thơ đầu tiên là mặt trời của thiên nhiên, của vũ trụ. Ngày ngày, mặt trời vẫn lên cao, soi sáng và đem sức sống cho muôn vật. Vị trí lăng Bác là một nơi đón nắng mặt trời, ngày ngày có thể nhìn thấy mặt trời đi qua trên lăng rất rõ ràng, đều đặn
+ Mặt trời trong câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ cho Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đang yên giấc ngàn thu trong lăng. Dù là mặt trời nào thì cũng đều sáng rực, đều đỏ chói lọi, chiếu sáng cho vạn vật. Hình ảnh ẩn dụ đã thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của nhà thơ đối với Bác. Chính Người là mặt trời của dân tộc, đem lí tưởng cách mạng soi sáng dân tộc Việt Nam, giúp dân tộc ta thoát khỏi đêm đen của thời chiến tranh xâm lược.
=> Niềm thành kính của nhà thơ cũng chính là nỗi niềm chung của dân tộc, sự biết ơn sâu sắc. Trong nhiều bài thơ khác, Bác Hồ cũng như ánh sáng, lý tưởng cách mạng đã được ví như mặt trời, trong “Từ ấy”, Tố Hữu từng viết về cảm xúc của mình khi giác ngộ được lý tưởng cách mạng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
+ Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ: mỗi người dân Việt khi vào thăm lăng Bác đều xếp thành hàng dài để vào viếng lăng Bác trong một cảm xúc thiêng liêng nhất. Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, dường như kết tinh từ nỗi ngậm ngùi, tiếc thương vô hạn.
+ ”Kết thành tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”, đoàn người vào thăm lăng Bác kính dâng lên Bác những gì đẹp đẽ nhất. Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” chính là ẩn dụ cho quãng đời bảy mươi chín năm tươi đẹp trong cuộc đời Bác, cống hiến, hy sinh vì dân, vì nước.
*Phân tích khổ thơ thứ ba
+ Hình ảnh “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”: Khi vào trong lăng thăm Bác, nhà thơ nhìn thấy Bác mà không khỏi xúc động, Người giống như đang chìm vào giấc ngủ bình yên, hình ảnh nhẹ nhàng, gợi chút nghẹn ngào.
+ Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền: Bác nằm ngủ dưới ánh đèn sáng mà nhà thơ liên tưởng như giữa một vầng trăng sáng bởi khi còn sinh thời, vầng trăng từng là người bạn gắn bó, là bạn thơ của Bác trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, khi Bác đã chìm trong giấc ngủ ngàn thu, mọi hiện hữu tươi đẹp nhất của thiên nhiên dường như đều dành tặng cho Bác.
+ Mở rộng: Trăng trở thành người bạn thơ của Bác:
“ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Ngắm trăng)
hay:
“Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu”
Cả cuộc đời Bác vì lo cho dân cho nước mà đã chịu bao gian khổ, những lúc gian khổ ấy Bác lại tìm đến thiên nhiên để bầu bạn, tâm sự:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà "
(Cảnh khuya)
hay:
Dòng sông lặng ngắt như tờ
Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo”
(Đi thuyền trên sông Đáy)
+ ”vẫn biết trời xanh là mãi mãi”: hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, dường như Bác đã hóa thân vào đất trời, hình ảnh Bác sẽ vẫn còn mãi trong lòng mỗi người dân Việt. Tuy vẫn tự nhủ lòng như vậy, nhưng nhà thơ cũng không thể nào kìm nén được nỗi đau “mà sao nghe nhói ở trong tim”, nỗi đau quằn quại, nhói như từng mũi kim châm vào trái tim nhà thơ khi đứng trước thi thể của Người.
*Phân tích khổ thơ cuối
+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” giống như một lời kể giản dị, chân thành, thể hiện cảm xúc mãnh liệt, lưu luyến không muốn rời xa.
+ Chính tấm lòng ấy đã khiến cảm xúc của nhà thơ biến thành mong ước được làm những sự vật quanh lăng Bác để được ở bên Bác.
+ Phép liệt kê cùng điệp từ đã thể hiện được mong mỏi và khao khát chân thành của nhà thơ. “Muốn làm con chim hót” để dâng tặng Bác những thanh âm trong trẻo nhất, “muốn làm đóa hoa” để dâng tặng cho người hương sắc tươi đẹp, “muốn làm cây tre trung hiếu” để canh cho Người giấc ngủ bình yên. Hình ảnh cây tre mở đầu bài thơ cũng đồng thời khép lại bài thơ một cách khéo léo thể hiện tài năng nghệ thuật của Viễn Phương.
Tổng kết về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Viếng Lăng Bác”
Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện chất trữ tình đằm thắm, niềm thành kính thiêng liêng của nhà thơ dành cho Bác, nỗi xót thương đối với vị Cha già kính yêu của dân tộc.
Giá trị nghệ thuật: Bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ, gieo vần linh hoạt, giọng điệu thơ nhịp nhàng, thể hiện được cảm xúc chủ đạo của bài thơ, hình ảnh so sánh gần gũi, giản dị xuất phát từ tình cảm chân thành.
Bài viết: Phân tích Bài thơ: “ Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương
Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca của Việt Nam được các nhà thơ, có thể nói người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng trong mỗi tác phẩm của mình. Không ít tác phẩm về Người đã để lại các dấu ấn văn học cho các em học sinh sau này, một trong những tác phẩm được coi là mang lại nhiều cảm xúc nhất đó là bài thơ “ Viếng Lăng Bác” của tác giả Viễn Phương, trrong bài thơ mỗi câu từ của tác giả muốn nói lên nỗi niềm của một người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.
Nhắc tới nhà thơ Viễn Phương là nhắc tới một nhà thơ gắn liền với dòng văn học Cách mạng từ những ngày còn trong thời gian chiến đấu bên cạnh đó người ta còn nhắc tới ông là một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng. Mỗi tác phẩm của ông đều lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh giản dị mà sâu sắc và tác phẩm thể hiện được hết sự tinh tế, những tình cảm chân thành để lại dấu ấn nhất cho ông là bài thơ “ Viếng Lăng Bác” cả bài thơ chứa đựng trong đó là niềm đau xót, là sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc khi được dịp ra thăm lăng Bác.
Với những vần thơ thiết tha bày tỏ niềm thành kính và nỗi xúc động khi được ra thăm lăng Bác
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con dành cho người cha của mình đã nói lên sự chân thành nhất của mình, sau bao khao khát được một lần ra thăm bác nỗi xúc động, nghẹn ngào được tác giả thốt lên trong câu thơ đầu đó như thoải lòng mong mỏi gặp Bác bấy lâu. Ở tận miền Nam xa xôi, mãi tới hôm nay, sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, người con ấy mang lại cả trái tim của hàng triệu đồng bào niềm Nam đang dõi theo người, tiếp theo câu thơ, tác giả đã dùng hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc, nó xa xôi như thế nên bây giờ mới có thể ra thăm Bác. Khi tác giả dùng từ “ thăm” thay vì từ “viếng”, đây là một nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang trào dâng trong lòng ông, bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy nhưng mà tác giả cũng không quên để ý với cái nhìn đầu tiên đó là những hàng tre, nó ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh lăng Bác. Từ xưa tới nay cây tre đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta, từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù, cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt, khi tận mắt chứng kiến hàng tre xanh bên lăng Bác, trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”, không phải bất cứ từ nào khác mà lại là “bát ngát” tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người, chính vì cái ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán rằng
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre rất giống con người Việt Nam những con người anh dũng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang, dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Hàng tre “xanh xanh” được sử dụng ở đây như để biểu đạt, diễn tả rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam luôn có thể đứng trước mọi chông gai, luôn tươi tốt, trường tồn như cây tre xanh vậy, màu xanh này là màu của sự sống, sự bất diệt do vậy tác giả đã không ngần ngại để viết lên dòng thơ này để lấy nó để ví sức sống bền bỉ, sự trường tổn của đất nước, dân tộc “ Bão táp mưa xa vẫn thẳng hàng” .
Cả khổ thời đầu tiên đã bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác, trong khổ thơ đó, có nỗi đau xót mất đi Bác nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc.
Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác, trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời, một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng nghỉ ngày và đêm.
Điều này làm tác giả nhận ra một điều rằng, mặt trời ấy “ngày ngày” sẽ đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người và nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc được tác giả Viễn Phương, Bác Hồ - Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất, nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ - mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con đường cho dân tộc. Với phép ẩn dụ là như vậy nhưng với cái nhìn thực tế thì hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng, nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình.
Tác giả đã lấy phép ẩn dụng để lấy hình ảnh mặt trời đỏ ấy chính là Bác, màu đỏ của măt trời ấy toát lên từ phẩm chất con người của Bác, các lý tưởng vĩ đại mà Người thể hiện rõ ý chí bất khuất, kiên cường, các công lao mà người mang lại cho người dân tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia.
Sự tuần hoàn của tự nhiên đã được tác giả dùng lần thứ hai, từ láy “ ngày ngày” được tác giả lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người, hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người, điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác nó thể hiện sự thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc “ đi trong thương nhớ”. Nỗi nhớ ấy đã kết thành “tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người, “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ, và tất cả tuổi xuân của Bác đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Trong những câu thơ tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình. Càng đi sâu vào trong lăng, nỗi nghẹn ngào lại càng mãnh liệt khôn nguôi khi bắt gặp hình ảnh của người
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon, cả cuộc đời Bác chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình, vậy nên giờ đây khi đất nước được hòa bình, độc lập, Bác đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình giữa một vầng trăng dịu hiền, hình ảnh ánh trăng giống như Bác vậy luôn ấm áp, dịu hiền. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân, trong khổ thơ này tác giả lại một lần nữa đã sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông, Bác Hồ đang nằm đó,giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.
Dẫu biết rằng Bác như bầu trời xanh kia vậy, luôn mãi mãi trường tồn, khắc sâu trong trái tim của tất cả mọi người, nhưng sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Không chỉ tác giả đây chính là nỗi lòng của tất cả mọi người dân Việt Nam, tiếng thơ của ông khi cất lên ôi! sao mà đau đớn quá. Bởi Bác được ví như một bầu trời xanh thứ hai vậy đã giúp người dân thoát khỏi áp bức, cho người dân sự sống, sự trường tồn ấy tưởng chừng là mãi mãi như bầu trời xanh, tiếc thương sao được bầu trời thứ 2 ấy đã ra đi mãi mãi.
Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng, dù lý trí luôn tỏ tường ràng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”, nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt, thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy, đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào. Càng bên Bác, tình cảm lại dạt dào, cùng bứt rứt, quyến luyến chẳng rời xa, từng giây phút thiêng liêng ấy khi phải lìa xa đã không ngăn được những dòng nước mắt nối tiếc, bịn rịn.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…."
Ngày mai, con phải trở lại miền Nam xa xôi phải rời xa người Cha kính yêu, vị lãnh tụ của đất nước biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người, vì thế nhà thơ đã không cầm được nước mắt, bật lên tiếng nức nở, bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện: muốn làm con chim hót , muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương, muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Ước nguyện giản dị ấy nhưng chất chữa tình cảm lớn lao của người con gửi tới Bác, tác giả khi sử dụng điệp từ “muốn” lặp lại tới 3 lần như khẳng định đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ, uớc nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm một con chim hót, một đóa hoa, một cây tre trung hiếu. Khi được làm con chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu với nơi đây, nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước, sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xa, khi kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện.
Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc, tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối, qua đó, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta. Mong ước của mỗi người dân Việt Nam đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.
Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc, chỉ một cuộc viếng thăm thôi nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta, sự ra đi của Người có đau xót, có xót xa, nhưng lý tưởng của Người để lại, ý chí và phẩm chất của Người sẽ mãi là tấm gương soi tỏ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở về, đó cũng là những lời mà Viễn Phương muốn ngỏ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.
Qua bài phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác trên đây, hy vọng các bạn có thể học tốt hơn môn Ngữ Văn bậc trung học cơ sở này.
>> Tham khảo thêm:
Chia sẻ