“Tự tình” là bài thơ nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, viết về số phận hẩm hiu, sự cô đơn, vắng vẻ trong tâm hồn người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Hãy cùng vieclam123 tìm hiểu dàn ý và bài văn mẫu chi tiết phân tích bài thơ "Tự tình" để cảm nhận tâm trạng sầu thương của người nữ sĩ.
Cách 1:Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
Tác giả: Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm có đóng góp to lớn vào nền văn học dân tộc vào khoảng cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Bà được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm” bởi sự đặc sắc trong ngôn ngữ thơ và sự nghiệp sáng tác đồ sộ của mình.
Thơ của Hồ Xuân Hương thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ và xót thương cho những bất hạnh mà họ phải chịu.
Tác phẩm: “Tự tình” là một trong ba bài thơ trong chùm thơ “Tự tình”, thể hiện nỗi buồn tủi của thân phận người
Cách 2: Dẫn dắt từ câu thơ nói về số phận người phụ nữ trong xã hội xưa
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều_Nguyễn Du)
Hình ảnh người phụ nữ với nét đẹp tâm hồn nhưng luôn phải chịu những bất công, số phận ngang trái đã trở thành một trong những đề tài quen thuộc trong thi ca Việt Nam. Cũng cùng đề tài ấy, “Tự tình” của Hồ Xuân Hương là tiếng lòng của người phụ nữ sống trong sự cô đơn, vắng vẻ mỗi khi đêm về.
Phân tích hai câu thơ đầu
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
+ Thời gian: “đêm khuya” là thời gian thường gợi buồn, gợi nhớ, khơi gợi những cảm xúc sâu thẳm nhất trong tâm hồn con người.
+ Không gian: vắng lặng vì vậy có thể nghe rõ tiếng trống canh thúc giục vang lên trong đêm tối. Đảo ngữ “văng vằng” càng khiến cho tiếng trống trở nên dồn dập, gây bức xúc trong lòng người.
+ Hình ảnh người phụ nữ hiện lên qua từ ngữ “cái hồng nhan”. Hồng nhan là người con gái đẹp, nhưng người con gái ấy trong thơ cổ thường gắn với mệnh khổ, đúng với câu “hồng nhan bạc mệnh”, chữ “hồng nhan” được sử dụng trong câu thơ càng gợi ra sự nhỏ bé, thân phận mỏng manh của người phụ nữ.
+ Chữ “cái” đứng trước hồng nhan, là cách mà nữ sĩ dùng để chỉ thân phận mình, không những mỏng manh, nhỏ bé mà còn bạc bẽo, không được trân trọng.
+ Động từ “trơ” ám chỉ sự lẻ loi, đồng thời cũng là sự chai lì, đã quá quen với những bất hạnh, những đau khổ, tổn thương trong cuộc đời.
+ Nghệ thuật đối “cái hồng nhan” với “nước non” : một bên thì nhỏ bé, cô quạnh, mỏng manh, một bên thì rộng lớn, vĩnh cửu, trường tồn. Người phụ nữ trong đêm khuya thanh vắng, một mình giữa cảnh thiên nhiên, đất trời càng cảm thấy lẻ loi, cô quạnh .
=> Câu thơ vừa gợi sự cô quạnh, lẻ loi đơn chiếc của người phụ nữ đã hai lần đò nhưng tình duyên vẫn chưa lần nào cập bến. Giữa không gian đêm khuya thanh vắng càng làm nổi bật lên sự cô độc, cảm xúc dâng trào từ nỗi buồn, lẻ loi, cô đơn đến sự chai lì, rồi thách thức, đem cái hồng nhan để thách thức với nhân gian.
+ Mở rộng: Trong bài thơ “Tự tình 2” cũng trong một không gian vắng lặng như vậy, nghe tiếng gà gáy trên bom mà người nữ sĩ với tâm trạng oán hận nhìn nhận mọi sự vật của cuộc đời.
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm”
*Phân tích hai câu tiếp theo
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
+ Hành động: uống rượu, nhưng uống rượu để tiêu sầu, quên đi thực tại mà càng uống lại càng tỉnh, vòng lặp “say lại tỉnh” giống như những bất hạnh trong cuộc đời người phụ nữ không thể nào thoát ra được.
+ Mở rộng: Trong thơ cổ đã từng có câu “Rút dao chém nước nước càng chảy mạnh/Sầu uống rượu càng sầu thêm” diễn tả một cách vô cùng chính xác tâm trạng của những người đang mang theo nỗi buồn sầu mà tìm đến rượu để tiêu sầu.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng từng viết về hình ảnh Kiều khi ở lầu Ngưng Bích, tự tìm đến rượu để tiêu sầu:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
+ Nghệ thuật đối tài tình “Chén rượu-vầng trăng”, “hương đưa-bóng xế”, “say lại tỉnh-khuyết chưa tròn” càng làm nổi bật lên sự cô quạnh của người nữ sĩ. Giữa người phụ nữ trong đêm khuya thanh vắng và vầng trăng đều có những nét tương đồng, đều cô đơn, đều đẹp, nhưng lại phải chịu số phận hẩm hiu. Hình ảnh “bóng xế khuyết chưa tròn” phải chăng chính là nhận thức của tự thân nữ sĩ về số phận của mình, tuổi xuân dang dở, hạnh phúc lỡ làng.
*Phân tích hai câu thơ tiếp theo
“Xiên ngang mặt đất mây từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
+ Nếu như ở hai câu thơ đầu, điểm nhìn là ở trên cao và xa thì ở hai câu luận này, nữ sĩ đã chuyển điểm nhìn về mặt đất, để ý đến từng hình ảnh, sự vật nhỏ nhoi.
+ Hình ảnh “rêu”, “đá”, là những hình ảnh của những vật nhỏ bé, ít ai chú ý đến. Tuy nhiên, chính những sự vật nhỏ bé như vậy lại mang trong mình sức sống mãnh liệt, phá bỏ những khuôn phép và giới hạn thông thường để vươn tới một ánh sáng, vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, không chịu khuất phục, cam chịu.
=> Hình ảnh rêu đá, với sức sống mãnh liệt, giống như tâm trạng của người con gái ấy đang cố gắng phản kháng dữ dội với cuộc đời, muốn nổi loạn, muốn đập tan những quy định, giáo điều hà khắc trong xã hội để tự tìm hạnh phúc cho riêng mình.
* Phân tích hai câu thơ cuối
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
+ Nữ sĩ chỉ ra hiện thực của đất trời: mùa xuân của đất trời thì vĩnh hằng, tuần hoàn, “xuân đi xuân lại lại”, nhưng tuổi xuân của đời người chỉ có một lần trong đời, một khi đã qua thì không thể nào trở lại được nữa.
+ Mở rộng: Sau này, trong bài “Vội vàng”, Xuân Diệu cũng đã từng viết về tuổi trẻ của đời người:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
+ Nữ sĩ chỉ còn biết thốt lên trước thân phận mình, nhìn tuổi trẻ của mình qua đi “ngán”. Người phụ nữ ấy đã từng sử dụng nhiều từ chỉ cảm xúc để thể hiện tâm trạng của mình. Trong bài “Tự tình 2”, Hồ Xuân Hương từng viết: “oán hận trông ra khắp mọi chòm”, còn trong bài “Tự tình 1”, người nữ sĩ ấy từng viết:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu không đánh cớ sao om”
Nỗi buồn sầu trong lòng nữ sĩ dường như chỉ có đầy lên chứ không hề vơi đi, nỗi oán hận kiếp “lấy chồng chung” ấy cũng được thể hiện:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”
+ Lối chơi chữ: “mảnh tình san sẻ tí con con” là một lối nói chua chát, tình cảm đã chẳng thể vẹn nguyên mà chỉ được một “mảnh”, đã vậy lại còn phải san sẻ ra nhiều phần, chỉ còn lại “tí con con”. Đây chính là nỗi buồn khổ của người phụ nữ phải chịu cảnh lấy chồng chung, không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, phải chịu đựng sự cô quạnh trong những tháng năm thanh xuân đẹp đẽ nhất của cuộc đời.
Tổng kết về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
Giá trị nội dung: Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ trong cuộc sống đời thường nhiều lẻ loi cô quạnh trong xã hội phong kiến xưa.
Giá trị nghệ thuật: bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật, lối gieo vần, chơi chữ độc đáo đã cho thấy tài hoa của bà chúa thơ Nôm của dân tộc.
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng, một nữ sĩ tài ba của nước ta vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Bà nổi tiếng với những sáng tác thơ Nôm viết về cuộc đời và thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. “Tự tình” là một trong những bài thơ hay nhất của Hồ Xuân Hương viết về người phụ nữ với duyên phận hẩm hiu, sống trong sự cô đơn, vắng vẻ.
Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”. Hồ Xuân Hương rất sành thơ Nôm và vận dụng chữ Nôm tài tình vào thơ cổ. Đến nay, người ta chỉ còn sưu tập được tập “Lưu Hương kí” và 24 bài thơ chữ Hán cùng 26 bài thơ Nôm, và một số bài thơ được truyền tụng trong dân gian.
Bài thơ là một trong ba bài thơ cùng tên “Tự tình”, bày tỏ cảm xúc riêng tư và tâm trạng của nữ sĩ. Mở đầu bài thơ là những câu thơ tả cảnh khuya vắng, và sự cô đơn của người phụ nữ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Nhà thơ sử dụng âm thanh tiếng trống canh khuya để gợi ra sự thanh vắng. Đêm càng vắng vẻ, âm thanh vọng lại lại càng rõ ràng, càng làm thức tỉnh nỗi cô đơn. Nghệ thuật đảo ngữ “văng vẳng trống canh” được đặt lên đầu câu gợi ra âm thanh dồn dập, hối thúc, báo hiệu thời gian qua mau, gây bức xúc trong lòng người. Câu thơ lấy động tả tĩnh, cho thấy sự cô đơn trong đêm khuya vắng của kiếp cô quả. Nữ sĩ dùng cụm từ “cái hồng nhan” để chỉ thân phận mình. “Hồng nhan” là người con gái đẹp, nhưng nhan sắc ấy lại đi cùng từ “cái”, gợi ra cuộc đời nhỏ bé, thân phận mỏng manh của người phụ nữ. Đây là cách nói chua chát, bất lực, một lời thở than, tự thán cho thân phận mình. Từ “trơ” vừa gợi ra sự lẻ loi, vừa là sự chai lì, chua xót của người phụ nữ khi đã hai lần đò mà tình duyên chưa cập bến. Cả câu thơ là một thái độ đầy thách thức, dám đem tài sắc của mình để thách thức với đời, đem cái hồng nhan để đối với nhân gian.
Trong bài “Tự tình I”, nữ sĩ cũng viết về tâm trạng của người phụ nữ trong cảnh đêm khuya thanh vắng:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm”
Người phụ nữ trong “Tự tình II” cũng đầy những nỗi sầu chất chứa trong lòng, tình cảnh của người phụ nữ chăn đơn gối chiếc, khắc khoải mòn mỏi trong đêm trường quạnh vắng.
Giữa đêm trường quạnh vắng ấy, người phụ nữ tìm đến rượu với ước mong vơi bớt nỗi sầu:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Uống rượu tiêu sầu nhưng “say lại tỉnh”, cũng giống như “Rút dao chém nước nước càng chảy mạnh/ Sầu uống rượu càng sầu thêm”. Ta đã từng bắt gặp hình ảnh Kiều trong đêm, tìm đến rượu để giải sầu, quên đi sự bạc bẽo của cuộc đời “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/Giật mình mình lại thương mình xót xa” (Truyện Kiều, Nguyễn Du).
Nghệ thuật đối tài tình “chén rượu” – “vầng trăng”, “hương đưa” – “bóng xế”, và đặc biệt là đối giữa “say lại tỉnh” với “khuyết chưa tròn”, càng làm nổi bật lên hiện thực duyên phận hẩm hiu trắc trở. Chỉ có vầng trăng làm bạn để người con gái có thể tâm tình. Vầng trăng cũng như người con gái vậy, cũng cô đơn, cũng đã “bóng xế” giống như người con gái quá lứa lỡ thì, nhưng vẫn “khuyết chưa tròn”, hiện thực về duyên phận dở dang, tuổi xuân lỡ làng. Câu thơ giống như lời bày tỏ chân thành với mong muốn, khát khao được hạnh phúc giống như bao người con gái khác trong cuộc đời.
Ở hai câu thơ tiếp theo, điểm nhìn của nữ sĩ đã chuyển xuống dưới mặt đất, tư thế cúi đầu để ngắm nhìn cảnh vật:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Sự vật được nhắc đến đều là những thứ rất nhỏ bé, ít ai chú ý đến, nó chỉ là những hòn đá, những đám rêu trên mặt đất. Nghệ thuật đảo ngữ với những động từ mạnh “xiên ngang”, “đâm toạc” đã cho thấy sức sống mãnh liệt và khao khát vươn lên của cảnh vật, không muốn khuất phục và cam chịu. Hai câu thơ không chỉ cho ta thấy tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt đang vươn lên sau những tháng ngày bị đè nén mà ẩn sâu trong đó còn là khát vọng vươn lên, thoát ra khỏi cuộc sống bất công với những dồn nén lâu nay với người phụ nữ. Người con gái ấy đang cố gắng phản kháng dữ dội với cuộc đời lắm éo le, muốn nổi loạn, muốn đập tan những quy định, giáo điều hà khắc trong xã hội.
Hai câu thơ là những nỗi phẫn uất, nỗi bực dọc bởi một tâm hồn đang căng đầy sức sống trước cuộc đời nhưng lại bị dìm xuống bởi những nỗi bi thương. Trong bài “Tự tình I”, nữ sĩ cũng bày tỏ sự buồn tủi của mình:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu không đánh cớ sao om”
Những nỗi buồn tủi cứ ngày một dồn nén, ngày một dâng cao không cách nào giải tỏa. Nỗi sầu cứ thế dâng lên, chất chứa trong lòng, dâng lên uất nghẹn, mà không thể tìm được một ai tâm sự bầu bạn. Nỗi sầu ấy cứ giống như được nhân lên hết ngày này qua tháng khác, đúng như Nguyễn Du cũng đã từng viết “Sầu đong càng lắc càng đầy/Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”. Ngày rồi đến đêm, đêm cũng như dài ra vì người con gái ấy không thể nào chợp mắt khi nghĩ về thân phận mình, nghĩ về cuộc đời hẩm hiu, cô quạnh của mình. Nỗi sầu ấy đã chuyển sang nỗi chán chường, mệt mỏi:
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Mùa xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn lặp lại, đất trời vẫn mãi tươi đẹp, rộn ràng khi xuân về. Nhưng tuổi xuân của người con gái thì chỉ có một lần trong đời, một khi đã bỏ lỡ thì không thể nào quay trở lại được nữa. Mùa xuân của đất trời là vĩnh hằng, còn mùa xuân của mỗi người lại hữu hạn. Vậy thì, người con gái ấy nên trân trọng, yêu quý tuổi xuân của mình và ai cũng mong có một tuổi xuân thật đẹp đẽ. Nhưng buồn thương thay, khi nhắc về tuổi trẻ của mình, người con gái ấy lại cảm thấy “ngán”, thấy chán chường, mệt mỏi và đầy ngao ngán. Tại sao vậy? Vì người con gái ấy đã ở độ tuổi quá lứa lỡ thì, vì người con gái ấy đã trải qua tuổi xuân không mấy hạnh phúc, ấm êm, vì người con gái ấy ngày ngày đều phải sống trong khắc khoải, mòn mỏi, chờ mong.
Những tưởng tình yêu lứa đôi, hạnh phúc sẽ đến với người con gái ấy khi được “san sẻ” tình duyên, nhưng không, câu thơ cuối bài mới thật chua xót làm sao. Đã là tình duyên nhưng không hề tròn đầy, không hề dào dạt mà chỉ có một “mảnh”, đã bé mọn là vậy nhưng người con gái cũng không có được đầy đủ cả một “mảnh tình” ấy mà chỉ được san sẻ một “tí con con”. Cách chơi chữ theo chiều tăng tiến giảm thiểu đã chỉ ra niềm hạnh phúc mong manh đến bé mọn của người con gái, đúng là cuộc đời này vẫn mãi bất công khi “cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng”. Hai câu kết lại trở về với tâm trạng buồn hiu, khi ngẫm về thực tại đáng buồn của kiếp người con gái chịu cảnh “lấy chồng chung”:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”
Vẫn mãi là thực tại đau buồn, dù người phụ nữ có cố gắng đến đâu, có vẫy vùng đến đâu, tâm tư có muốn nổi loạn đến đâu, cũng vẫn mãi bất lực trước vòng tròn cương tỏa của chế độ phong kiến với những hà khắc bất công. Làm sao một người phụ nữ nhỏ nhoi, một kiếp người phận bạc có thể phản kháng lại cả một chế độ cường quyền, trọng nam khinh nữ. Tất cả dồn lại chỉ còn là sự bất lực, là tiếng thở dài cam chịu số phận. Vì không cam chịu, người phụ nữ ấy còn có thể làm gì hơn, chỉ còn biết “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”, mặc kệ dòng đời xô đẩy, buông xuôi trước số phận hẩm hiu.
Bài thơ không chỉ là lời tâm sự tự tình của Hồ Xuân Hương, nó còn là tiếng lòng của biết bao người phụ nữ khác. Không biết đêm “tự tình” này là đêm thứ bao nhiêu người con gái ấy thức và buồn tủi về thân phận, cuộc đời. Không biết đã gom đủ bao nhiêu uất ức bất công để muốn bùng nổ sự phản kháng mãnh liệt. Cũng không biết đã trải qua bao nhiêu thất vọng, bao nhiêu bất lực để người con gái ấy chấp nhận cam chịu trước cuộc đời. Đã có những suy nghĩ vùng lên, nhưng suy cho cùng, kiếp người nhỏ bé, một người phụ nữ yếu ớt thì có thể làm gì được để đối đầu với xã hội đen tối ngoài kia, để tự tìm vùng sáng cho mình.
Bài thơ chặt chẽ về hình thức, lối gieo vần, chơi chữ, với nghệ thuật đối tăng tiến đã cho thấy tài năng của Bà chúa Thơ Nôm. Ngôn ngữ dân gian bình dị cùng những hình ảnh của cuộc sống đời thường cứ thế đi vào thơ ca một cách tự nhiên nhất. Qua bài thơ, ta cũng hiểu hơn về nỗi lòng của nữ sĩ nói riêng, cũng như của người phụ nữ Việt Nam thời kì phong kiến nói chung.
Đã có biết bao nhà văn nhà thơ với bao tác phẩm nổi tiếng viết về nỗi thấu khổ cũng như phẩm chất chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam. Mỗi tác phẩm lại để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc, và những tác phẩm của Hồ Xuân Hương cũng vậy. Từ chính nỗi lòng của mình mà nhà thơ có cái nhìn cảm thông và đa chiều hơn về số phận người phụ nữ. Một con người có tài năng, lại xinh đẹp như Hồ Xuân Hương, vừa có học lại có nhan sắc, nổi danh một thời là tài nữ đất Thăng Long vậy mà cũng không thể thoát khỏi kiếp “hồng nhan bạc phận”. Qua những tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn của Hồ Xuân Hương ta càng thêm yêu quý, cảm phục bà, đồng thời cũng thương cho cuộc đời đầy bi thương của nữ sĩ nói riêng cũng như người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến nói chung, một cuộc đời mà sống mãi trong vòng luẩn quẩn, tù túng, buồn thương mà không cách nào thoát ra được.
>> Tham khảo thêm bài văn mẫu:
Chia sẻ